SKKN Hóa học 9. Sử dụng bản đồ tư duy trong hóa học 9

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .......................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài  .................................................................................. 3
2. Mức độ nghiên cứu đề tài  .................................................................... 8
3. Đối tượng, khách thể, phạm vị nghiên cứu ........................................... 8
4. Ý nghĩa thực tiễn của  đề tài ................................................................. 9
5. Kết cấu của đề tài ..............................................................................  12
NỘI DUNG ...........................................................................................  13
Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề ...................................................... 13
1. Thuận lợi ...........................................................................................  13
2. Khó khăn ..........................................................................................  14
Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính.............. 15
1. Thực trạng và giải pháp.................................................................. 15
1.1 Giảng dạy sơ đồ tư duy nhằm tăng tính tích cực trong HS............... 15
1.2 GV trở thành người hướng dẫn hỗ trợ.............................................. 16
1.3 Những lưu ý HS khi sử dụng sơ đồ tư duy......................................... 19
2. Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy.............................. 20
2.1 Giới thiệu đôi nét về sơ đồ tư duy..................................................... 20
2.2 Nguyên lý và ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học.......................... 20
2.3 Giới thiệu một số phần mềm để tạo sơ đồ tư duy.............................. 22
3 Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy......................................... 24
Phần III. Kết quả và bài học kinh nghiệm và kiến nghị ...................  37
1. Kết quả.............................................................................................. 37
2. Bài học kinh nghiệm.......................................................................... 38
3. Kiến nghị........................................................................................... 42
KẾT LUẬN .......................................................................................... 44
DANH MỤC TÀI  LIỆU THAM KHẢO ............................................ 47
PHẦN THỨ NHẤT : ĐẶT VẤN ĐỀ
          I. Lý do chọn đề tài
Hóa học cũng như bất cứ môn học nào khác ở nhà trường đều cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học cho HS và đóng góp vai trò quan trọng trong việc phát triển tư duy người học.
     Trong quá trình giảng dạy, người thầy luôn phải đặt ra cái đích, đó là giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo thái độ và động cơ học tập đúng đắn để HS có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới theo xu thế của thời đại và giải quyết phù hợp các vấn đề nảy sinh.
     Hóa học là môn khoa học tự nhiên, nghiên cứu tính chất, sự vật, hiện tượng có tính ứng dụng thực tiễn cao. Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường THCS Ngọc Long, tôi nhận thấy rằng HS gặp khó khăn khi phải ghi nhớ các khái niệm, định nghĩa, tính chất của các chất…việc ghi nhớ của các em gần như tái hiện lại nguyên văn trong SGK làm cho việc học tập trở nên nhàm chán, máy móc, thụ động, không sáng tạo, khả năng phân tích, so sánh, tư duy vận dụng còn hạn chế.
Để nâng cao chất lượng dạy học, cần phải đổi mới phương pháp dạy học các môn học ở trường phổ thông nói chung và môn Hoá học nói riêng. Công nghệ thông tin được ứng dụng vào môn hoá học đã góp phần cải thiện sự nhàm chán và gây hứng thú học tập bộ môn cho HS. Để đa dạng hóa các hình thức dạy học, để khắc sâu kiến thức trong bộ não một cách lôgic mà lại phát huy được khả năng tiềm ẩn trong bộ não của HS, trong quá trình giảng dạy của mình, tôi thường hướng dẫn HS ghi nhớ bài học dưới dạng từ khóa và chuyển cách ghi bài truyền thống sang phương pháp ghi bài bằng BĐTD. Tôi nhận thấy phương pháp này là thực sự cần thiết nhằm giúp HS rút ngắn thời gian học, giúp các em dễ nhớ, nhớ lâu, dễ dàng hệ thống hoá kiến thức với lượng lớn, đồng thời phát triển tư duy cho các em. Vì vậy, tôi đã đưa phương pháp dạy học bằng BĐTD vào áp dụng cho các tiết học lí thuyết trong chương trình Hoá học lớp 8 và lớp 9.
II. Mức độ nghiên cứu đề tài
 Với phạm vi bài viết này tôi xin trao đổi với các đồng nghiệp cách sử dụng bản đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực của HS trong dạy học môn hóa học.
III. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu : “Soạn giảng bộ môn hoá học 8, 9  theo sơ đồ tư duy và chuẩn KTKN được điều chỉnh giảm tải trong PPCT năm học 2012 – 2013”.
+ Khách thể nghiên cứu : Môn Hoá lớp 8, 9  ở trường THCS.
+ Phạm vi nghiên cứu : Hướng dẫn học sinh học bài theo sơ đồ tư duy.
IV. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài  
          Để góp phần tạo nên sự chuyển biến trong dạy học bộ môn, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội, Để phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, phương pháp dạy học sử dụng sơ đồ tư duy tỏ ra có ưu thế. Mỗi bài học chứa đựng một số vấn đề cơ bản của hoá học, bằng sự hiểu biết của mình, giáo viên nêu vấn đề, tổ chức cho học sinh giải quyết bằng cách sáng tạo thành sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực và huy động bộ não các em làm việc hết công suất cho mỗi bài học, sẽ không còn tình trạng học sinh ngồi im thụ động chỉ có vài em được phát biểu và làm việc với giáo viên trong tiết học.
Phương tiện dạy học bằng sơ đồ tư duy ngày càng trở nên phóng phú và được sử dụng đạt hiệu quả cao. Nếu biết khai thác tốt sơ đồ tư duy sẽ hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Cùng với sự kết hợp các phương pháp, phương tiện trực quan và kỹ thuật sẽ góp phần ghi nhớ va hiểu sâu, hiểu mạch lạc kiến thức có hiệu quả. Việc sử dụng sơ đồ tư duy cùng phương tiện trực quan và kỹ thuật đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư công sức và trí tuệ cho bài giảng. Rõ ràng làm tốt công việc này sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ dạy.
V. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 phần  
-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.
-Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính.

-Phần III : Kết quả, bài học kinh nghiệm và kiến nghị
Để có đầy đủ SKKN vui lòng liên hệ 0962261017 (Hoàng)

SSKN Vật lí. Sử dụng phương pháp ảnh điện để giải một số bài toán tĩnh điện trong chương trình bồi dưỡng HSG

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Để nâng cao hiệu quả và chất lượng giảng dạy, các nhà giáo dục luôn tìm cách nghiên cứu, áp dụng, đổi mới phương pháp giảng dạy. Hiện nay, nhiều phương pháp dạy học nói chung và vật lý nói riêng mang lại hiệu quả cao như: phương pháp thực nghiệm, phương pháp tương tự hóa, phương pháp mô phỏng, phương pháp đồ thị...
Phương pháp mô hình là một trong những phương pháp nhận thức khoa học được vận dụng vào trong dạy học ở hầu hết các môn học, đặc biệt là trong giảng dạy và nghiên cứu vật lý. Nó thể hiện trước hết ở tính sâu sắc, tính hệ thống của các kiến thức, tạo điều kiện cho học sinh phát hiện những mối liên hệ giữa các hệ thống khác nhau ở các phần khác nhau của vật lí. Nội dung cơ bản của phương pháp mô hình là dựa trên các tính chất khác nhau liên quan đến tính đồng dạng vật lí của các hiện tượng. Ta có thể thay thế những bài toán khó, phức tạp bằng các bài toán gắn với những hiện tượng đơn giản hơn, đã biết dựa vào tính đồng dạng của chúng. Ảnh điện là một ví dụ cụ thể của phương pháp mô hình áp dụng trong vật lý nhằm giải quyết một số bài toán về tĩnh điện phức tạp.
Trong một số bài toán về tĩnh điện, chẳng hạn như những vấn đề liên quan đến tương tác giữa điện tích với mặt phẳng dẫn điện, giữa điện tích với quả cầu..., nếu giải bằng phương pháp thông thường là rất phức tạp. Tuy nhiên, nếu sử dụng phương pháp ảnh điện sẽ giải quyết bài toán đơn giản hơn.
Đối với các bài toán khó về tĩnh điện trong phạm vi bồi dưỡng học sinh giỏi, phương pháp ảnh điện là cần thiết và không thể thiếu. Phương pháp ảnh điện được vận dụng để giải cả một hệ thống các bài tập liên quan chứ không riêng một hay hai bài tập đơn lẽ. Vì tính chất quan trọng của phương pháp ảnh điện, tôi quyết định chọn đề tài “Sử dụng phương pháp ảnh điện để giải một số bài toán tĩnh điện trong chương trình bồi dưỡng HSG”. Đề tài có thể giúp tôi hoàn thiện chuyên đề bồi dưỡng của mình, nâng cao năng lực tư duy giải toán cho học sinh, là tài liệu hữu ích cho học sinh và các giáo viên đồng nghiệp tham khảo.


II. Mục tiêu đề tài
        + Giới thiệu nội dung, cơ sở lý thuyết của phương pháp ảnh điện.
        + Ứng dụng phương pháp ảnh điện để giải các bài tập tĩnh điện.
        + Xây dựng, phân loại hệ thống bài tập theo các chuyên đề riêng từ cơ bản đến chuyên sâu giúp cho quá trình dạy cũng như học được thuận lợi.
        III. Phạm vi nghiên cứu
        Đề tài tập trung khảo sát các tính chất điện của điện tích điểm và của vật dẫn, các vấn đề liên quan như: điện trường, mật độ điện tích, lưỡng cực điện...
        IV.  Phương pháp nghiên cứu
        + Phương pháp mô hình
        + Phương pháp hệ thống, khái quát
        V. Bố cục đề tài
        Bố cục đề tài ngoài ba phần chính là phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận còn có mục lục và tài liệu tham khảo.
        Phần nội dung có hai chương:
        + Chương I: Cơ sở lý thuyết của phương pháp ảnh điện.

        + Chương II: Áp dụng phương pháp ảnh điện để giải các bài toán tĩnh điện.
Để có đầy đủ SKKN vui lòng liên hệ 0962261017 (Hoàng)

SKKN mầm non. Một số hình thức giúp trẻ 4-5 tuổi hiểu về giá trị dinh dưỡng và VSATTP thông qua các hoạt động

Nội dung SKKN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
   I. Cơ sở lí luận
   II. Cơ sở thực tiễn
      1. Thuận lợi
      2. Khó khăn
   III. Các hình thức thực hiện
      1. Hình thức trong tiết học
      2. Các hình thức ngoài tiết học
         2.1. Thông qua dạo chơi
         2.2. Hoạt động góc
         2.3. Giờ ăn
         2.4. Hoạt động chiều
      3. Kết hợp với phụ huynh
      4. Sưu tầm, sáng tạo một số trò chơi giáo dục dinh dưỡng - VSATTP
   IV. Kết quả đạt được
C- KẾT THÚC VẤN ĐỀ 
   1. Kết luận
   2. Bài học kinh nghiệm
   3. Kiến nghị

              Ta thường nói:
“ Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”
        Trẻ là tương lai của đất bước, là mối quan tâm chung của toàn xã hội và cũng là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, hạnh phúc của mọi gia đình.
        Thật vậy, có được một đứa trẻ thông minh, khỏe mạnh là niềm mong ước của tất cả mọi người. Để đạt được mong ước ấy thì những người làm cộng tác Giáo Dục Mầm Non phải thực hiện một quá trình chăm sóc – giáo dục hết sức công phu. Trong quá trình đó, có rất nhiều điều khiến chúng ta băn khoăn, trăn trở. Làm thế nào để có được một đứa trẻ thông minh – khỏe mạnh? Chăm sóc – giáo dục trẻ thế nào cho tốt? Phải làm gì để trẻ phát triển toàn diện vệ thể chất – nhận thức - ngôn ngữ - thẩm mĩ – quan hệ tình cảm xã hội? Là một giáo viên mầm non tôi nhận thấy muốn có được một đứa trẻ phát triển toàn diện thì điều đầu tiên cần nói đến đó là “sức khỏe”. Có sức khỏe là tất cả - không sức khỏe là không có gì. Vì vậy trẻ em cần phải được cung cấp đấy đủ dinh dưỡng để phát triển toàn diện về thể lực và trí tuệ.
       Trẻ em lứa tuổi mầm non còn nhỏ, cơ thể còn non nớt nên trẻ phụ thuộc nhiều vào người lớn và đặc biệt cần sự giúp đỡ của họ. Nhà giáo dục giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ trẻ, tạo cơ hội và cơ may cho trẻ cho cuộc sống hiện đại và tương lai. Giáo dục mầm non phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ mầm non, xây dựng một nền móng vững chắc ban đầu cho sự phát triển cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ cho trẻ mầm non. Đặt cơ sở nền tảng hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
       Ở các trường mầm non đã thực hiện rất nhiều chuyên đề , chuyên đề giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm đã triển khai và góp phần to lớn trong việc nâng cao kiến thức dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm tới trẻ, tới giáo viên, tới phụ huynh học sinh. Là giáo viên mầm non khi đã nhận thức được tầm quan trọng của giá trị dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm. Tôi thấy mình cần phải có nhiệm vụ tuyên truyền rộng rãi giáo dục dinh dưỡng tới mọi người, đặc biệt đối với trẻ ngay ở độ tuổi mầm non.
      Việc đưa giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non là một việc làm rất cần thiết, tạo ra sự liên thông về giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ từ tuổi mầm non đến tuổi học đường.
      Vậy mỗi chúng ta hiểu như thế nào về giáo dục dinh dưỡng ? Giáo dục dinh dưỡng là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến tình cảm, lý trí con người nhằm làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành động để đi đến tự giác, chăm lo vấn đề ăn uống và sức khoẻ cá nhân, tập thể cộng đồng. Nhưng để đưa giáo dục dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm vào dạy trẻ ở lứa tuổi mầm non thì người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc truyền tải kiến thức tới trẻ nên sự hiểu biết về giá trị dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm của trẻ còn nhiều hạn chế. Vì giáo dục dinh dư  và vệ sinh an toàn thực phẩm lại không phải là một môn học riêng lẻ mà phải lồng ghép tích hợp trong các môn học khác và các hoạt động khác nhau.
      Bên cạnh đó, đặc thù trẻ ở lứa tuổi mầm non là học mà chơi, chơi mà học, học phải có đồ dùng trực quan quan sát thì trẻ mới có thể khắc sâu. Vậy việc giáo dục dinh dưỡng cho trẻ quả thật là rất khó và trừu tượng. Nên  không thể truyền tải trực tiếp được mà phải thông qua các hoạt  động  để  giúp trẻ  lĩnh hội được những kiến thức về giá trị dinh dưỡng .
              Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “ Một số hình thức giúp trẻ 4-5 tuổi  hiểu về giá trị dinh dưỡng và VSATTP thông qua các hoạt động”.
Để có đầy đủ SKKN vui lòng liên hệ 0962261017 (Hoàng)

SKKN mầm non. Giúp trẻ tự làm đồ chơi

Nội dung SKKN:
I . ĐẶT VẤN ĐỀ

   1.  Cơ sở khoa học
   2. Cơ sở thực tiễn.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
   1. Đặc điểm tình hình
      a. Thuận lợi
      b. Hạn chế
   2. Cách làm một số đồ dùng, đồ chơi
      2.1. Những con rối ngộ nghĩnh
      2.2. Làm những cây hoa to
      2.3. Hoa giấy
      2.4. Bảng gài
      2.5. Búp bê ngộ nghĩnh 
      2.6. Con sâu
      2.7. Chú ếch tinh nghịch
      2.8. Làm thú nhồi từ găng tay
      2.9. Những chú hề
      2.10. Bộ đồ chơi lật ảnh
      2.11. Học cụ âm nhạc
      2.12. Sa bàn nổi 3D 
   3. Kết quả thực hiện:
III . KẾT LUẬN  
I . ĐẶT VẤN ĐỀ.
     1.  Cơ sở khoa học:
-         Đối với trẻ nhỏ, dồ chơi là một nhu cầu thiết yếu, không thể thiếu được trong cuộc sống. Nó cần cho trẻ như thức ăn, nước uống hàng ngày.
-         Tuổi ấu thơ, ai trong chúng ta cũng một lần trải qua cái thời chơi đồ hàng bằng lá cây, bằng dây cuốn của các loại dây leo. Lấy đất nặn để nặn thành nồi, chảo, bát …, lấy rơm hoặc dây len cuốn lại thành hình búp bê…
-         Trẻ mầm non luôn có nhu cầu với đồ chơi mới, đặc biệt là trẻ 5 tuổi thích được tự tay tạo ra đồ chơi cho mình. Để thỏa mãn được nhu cầu đó của trẻ đòi hỏi giáo viên mầm non phải luôn sáng tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với tình huống giáo dục trong các hoạt động.
-         Ngày nay, trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế phát triển, đồ chơi cho trẻ cũng rất phong phú, hiện đại. Trong số đó, có những loại đồ chơi bổ ích, nhưng cũng không ít đồ chơi còn mang tính bạo lực, phi giáo dục, độc hại đối với trẻ em. Những loại đồ chơi phù hợp để phát triển trí tuệ cho trẻ mang tính giáo dục càng được bổ sung phong phú đa dạng bao nhiêu thì kích thích được tính tò mò ham hiểu biết cùng khám phá của trẻ bấy nhiêu.
-         Việc trẻ tự tay biết làm ra những sản phẩm cho giờ học sẽ giúp trẻ biết trân trọng, giữ gìn, yêu quí đồ dùng, đồ chơi và càng hứng thú khi tham gia vào các tiết học.
2. Cơ sở thực tiễn.
-         Trong thực tế, qua nhiều năm giảng dạy, hàng ngày được tiếp xúc với trẻ, được xem trẻ chơi, tôi nhận thấy được rằng trẻ nhỏ rất thích được chơi với những đồ chơi mới lạ, đặc biệt là những đồ chơi mà do tự tay trẻ làm ra. Trong khi đó, những đồ chơi hiện có trong lớp lại mang tính phổ biến, hạn chế về số lượng và ít được thay đổi. Vì vậy trẻ sẽ không phát huy được tính tích cực sáng tạo trong các hoạt động phát triển nhận thức
-         Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn cũng như cơ sở vật chất của Ban giám hiệu nhà trường
-         Trẻ Mẫu giáo lớn có nhận thức cao nên việc dạy học trẻ ở một lứa tuổi đồng đều có sự thuận lợi
Từ những lý do trên, bản thân tôi là một giáo viên trực tiêp giảng dạy, tôi đã dựa vào kinh nghiệm của bản thân và những người đi trước, dựa vào sách báo… tôi xin đưa ra : “Cách làm đồ dùng đồ chơi tự tạo hấp dẫn trẻ 5-6 tuổi ”
Thầy cô có nhu cầu sử dụng vui lòng liên hệ để có SKKN đầy đủ: 0962261017 (Hoàng)

SKKN mần non: Xây dựng thực đơn đảm bảo lượng Vitamin, sắt, canxi ... cho trẻ ở trường mần non

Sáng kiến gồm các vấn đề sau:
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
   I. Lí luận
   II. Thực tế
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
   1.Biện pháp 1. Sử dụng thực phẩm sạch - tươi, rau củ quả theo mùa để lượng vitamin và khoáng chất không bị hao hụt do bảo quản. 5
   2. Biện pháp 2. Sử dụng những thực phẩm giàu Can xi, sắt và Vitamin B1, A vào thực đơn hàng ngày của trẻ. 6
   3. Biện pháp 3. Phối hợp nhiều loại thực phẩm để có nhiều món ăn đa dạng đủ Vitamin và Khoáng chất.
   4. Biện pháp 4. Kết hợp chặt chẽ cùng chị em cấp dưỡng chế biến món ăn đúng kỹ thuật để giữ lượng can xi, sắt, vitamin B1, A ở mức tối đa. 19
      a. Tại sao. 19
      b. Cách chế biến mét sè mãn ¨n tiªu biÓu
C. KẾT QUẢ: 22
D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG: 22
   * Bài học kinh nghiệm
   *Phạm vi áp dụng

E. KẾT LUẬN

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:

I. LÍ LUẬN:

     Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai. Muốn có được chủ nhân tương lai của đất nước khỏe mạnh, cần quan tâm đến việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ngay từ khi các cháu còn nhỏ tuổi, đặc biệt là các cháu dưới 6 tuổi. Từ nhận thức này, là kế toán trong trường Mầm Non tôi tiếp tục nghiên cứu xây dựng những thực đơn hợp lý, chú trọng đến lượng vitamin và khoáng chất để nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ ở trường Mầm Non.
     Dinh dưỡng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống hàng ngày của mỗi con người nói chung và đặc biệt đối với trẻ nhỏ nói riêng . Vì trẻ còn bé, sức đề kháng yếu, nếu không có 1 chế độ chăm sóc về dinh dưỡng cần thận, khoa học thì trẻ dễ bị còi cọc, suy dinh dưỡng, đau yếu, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển sau này. Vì vậy, ngoài việc xây dựng thực đơn đảm bảo calo và cân đối các chất dinh dưỡng theo chuẩn  ta cần chú ý đưa các loại thực phẩm giàu Vitamin và khoáng chất  trong khẩu phần ăn của trẻ, bởi vì:
- Vitamin B1 có tác dụng giúp cho cơ thể nói chung và trẻ nhỏ nói riêng chuyển hóa thức ăn tốt hơn và quá trình trao đổi chất, tạo ra năng lượng điều hòa thần kinh cơ và tim, ngăn ngừa phù thũng; khi cơ thể thiếu sinh tố này khiến cơ thể bị phù thũng teo cơ, chán ăn khó ngủ và ảnh hưởng đến hệ thần kinh cũng như phản xạ gân xương. Trong cơ thể, B1 tham gia vào nhiều phản ứng chuyển hóa và đặc biệt là chuyển hóa gluxit
- Vitamin A cần thiết cho thị lực của trẻ cũng như sự khỏe mạnh của da và tốt cho hệ miễn dịch. Thiếu Vita min A còn làm cho trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp và đường tiêu hóa.
- Canxi có vai trò quan trọng trong sự phát triển và là khoáng chất nhiều nhất của cơ thể với 99% tập trung ở xương và răng, 1% còn lại nằm trong máu, mô tế bào. Khi thiếu can xi kéo dài sẽ dẫn đến trẻ bị còi xương, chậm lớn. Nếu hấp thụ đủ can xi trẻ sẽ có khung xương chắc khỏe khi trưởng thành.
- Sắt là 1 yếu tố vi lượng đã được nghiên cứu từ lâu, đây là 1 trong 3 vi chất dinh dưỡng ( vitamin A, Sắt, i ốt) đang được quan tâm vì sự thiếu hụt các vi chất này ở các nước đang phát triển đã và đang trở thành vấn đề có ý nghĩa đến sức khỏe cộng đồng. Mặc dù sự hiện diện trong cơ thể với 1 lượng rất nhỏ nhưng rất cần thiết cho nhiều chức năng sống như chức năng hô hấp, tăng cường hệ thống miễn dịch cho cơ thể... Như vậy sắt cần thiết cho tất cả mọi người, nhưng đối với trẻ em sắt vô cùng quan trọng vì trẻ em là đối tượng dễ bị thiếu sắt nhất do nhu cầu tăng cao. Vai trò quan trọng nhất của sắt là cùng với Protein tạo thành huyết sắc tố vận chuyển oxy cho nên thiếu sắt dẫn đến thiếu máu dinh dưỡng là bệnh phổ biến ở trẻ em. Thiếu sắt còn ảnh hưởng đến các bộ phận khác của cơ thể: ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa: trẻ biếng ăn, kém hấp thu...ảnh hưởng đến hệ thần kinh: mệt mỏi, kích thích rối loạn dẫn truyền thần kinh. Sắt tham gia vào tăng cường hệ thống miễn dịch cho cơ thể, nên thiếu sắt trẻ hay bị ốm đau do hệ thống miễn dịch suy giảm.

II. THỰC TẾ:

     Do bận công việc nên nhiều gia đình chưa chú trọng đến chế độ ăn  cho trẻ đủ chất- khoa học và hợp lí mà chỉ sử dụng các thực phẩm ăn nhanh chế biến sẵn hoặc chủ yếu là thịt, để chế biến các món ăn hàng ngày. Vì vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến dễ nhiễm những chứng bệnh đang có trong xã hội hiện nay. Việc tính  định lượng Calo và tỉ lệ các chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn của trẻ của các trường Mầm Non đã đi vào nề nếp và có chất lượng. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng bữa ăn , Phòng Mầm Non Sở giáo dục và đào tạo Hà Nội đã chỉ đạo các trường tính lượng Can xi, vitamin B1 trong khẩu phần ăn của trẻ. Ngoài ra, chúng tôi còn chú ý đưa  thực phẩm giàu  lượng Sắt và Vitamin A vào bữa ăn của trẻ. Sau đây là những biệp pháp mà trường chúng tôi đã thực hiện và có hiệu quả như sau:
    -  Sử dụng thực phẩm tươi, sạch- theo mùa
- Lựa chọn thực phẩm giàu Canxi, Sắt , Vitamin A và B1 để xây dựng thực đơn
- Phối hợp nhiều loại thực phẩm hàng ngày
- Hạn chế sự hao hụt lượng Vitamin và khoáng chất trong khâu chế biến.
 Việc thực hiện của các trường trong thành phố nói chung cũng đã có nhiều cải tiến chế biến xây dựng thực đơn phối hợp nhiều thực phẩm phong phú có giá trị dinh dưỡng cao, xong sự phối kết hợp giữa xây dựng thực đơn và cải tiến còn chưa được chú trọng và  thực hiện thường xuyên để đảm bảo định lượng cần thiết của Vitamin và khoáng chất. 
Để có đầy đủ SKKN vui lòng liên hệ 0962261017 (Hoàng)

SKKK Ngữ văn 10. Giảng dạy văn bản nghị luận trong Ngữ văn 10

I. Lý do chọn đề tài:

1.  Chương trình Ngữ Văn lớp 10 đến nay đã trải qua 5 năm thực hiện đổi mới sách giáo khoa của Bộ Giáo dục Đào tạo. Bên cạnh việc lựa chọn các tác phẩm văn học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số thể loại chính như: thơ, truyện, tiểu thuyết (gọi chung là văn bản nghệ thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn học không hư cấu được viết bằng nhiều thể loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như: nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch sử,…Nếu như chương trình sách giáo khoa trước đây ít chú ý thể loại văn nghị luận (giảng văn nghị luận) thì chương trình mới xuất hiện khá nhiều loại này. Như vậy, vấn đề thể loại văn học được mở rộng phạm vi, giáo viên và học sinh có điều kiện bao quát về hệ thống thể loại văn học trong nhà trường. Đáng lưu ý nhất là thể loại văn nghị luận, việc giảng dạy và tiếp nhận các tác phẩm thể loại này chưa được chú ý đúng mức.
2.  Việc dạy và học văn bản nghị luận gặp nhiều khó khăn bởi các lí do sau:
-                 Mục đích của văn bản nghị luận: phát ngôn cho một tư tưởng, một quan điểm, một chủ trương, một lập trường xã hội nhất định. Vì thế, nội dung thường là các vấn đề có tính chất thời sự, chính trị, văn hoá, quốc gia, dân tộc, lịch sử,… tương đối rộng với tầm hiểu biết phổ biến của học sinh.
-                 Hình thức: thường sử dụng hệ thống lập luận chặt chẽ, nhiều lí lẽ, đa dạng về phương thức biểu hiện và các phương tiện nghệ thuật.
-                 Đặc điểm: khô khan, ít phù hợp với tâm lí và nhận thức của học sinh; ít tính văn chương, khó đi vào cảm xúc của người đọc; ý tưởng thâm thuý khó nắm bắt,…
-                 Nguồn tư liệu bổ trợ khan hiếm.
3.  Xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt mỗi cá nhân trước nhiều thách thức mới, nhất là các vấn đề chính trị xã hội. Việc tiếp nhận các văn bản nghị luận trong nhà trường góp phần không nhỏ trong việc hình thành hệ thống quan điểm, tư tưởng cho thế hệ trẻ trong việc xử lí các vấn đề đặt ra của cuộc sống một cách đúng đắn, vừa phù hợp với tinh thần thời đại mới, vừa đảm bảo tinh thần quốc gia, dân tộc.
Trong khi đó, những văn bản nghị luận lại được giảng dạy và tiếp nhận với tư cách là tác phẩm văn học, vì thế, cái khó của người dạy là vừa đảm bảo tính khách quan của tác phẩm, vừa truyền lại những rung cảm của văn bản với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật thật sự. Chính vì tầm quan trọng của thể loại, sự khó khăn của giáo viên khi giảng dạy, tôi xin được đề xuất một vài kinh nghiệm có tính chất cá nhân góp phần đổi mới hướng nghiên cứu và giảng dạy môn Văn trong nhà trường qua đề tài: “Kinh nghiệm giảng dạy những văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn lớp10”.
II. Thực trạng
1. Hệ thống văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn 10: chiếm khối lượng khá nhiều (có bảng thống kê cụ thể trong SKKN)
Đối với việc dạy học Văn ở các cấp học nói chung và ở trường học phổ thông nói riêng, việc làm sao để đảm bảo được nội dung kiến thức bài học mà đồng thời học sinh lại phải chủ động chiếm lĩnh kiến thức bài học theo yêu cầu đổi mới về phương pháp hiện nay quả thật là điều không dễ thực hiện. Văn học là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật, vì vậy việc dạy văn đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng nhiều kĩ năng, trong đó không chỉ là kiến thức mà đòi hỏi cả sự sáng tạo, linh hoạt của người giáo viên ở mỗi bài dạy cụ thể. Sự chuẩn bị kĩ càng cho việc lên lớp của người giáo viên từ khâu chuẩn bị - tức là phần thiết kế bài dạy - là một trong những yếu tố góp phần không nhỏ vào hiệu quả của tiết học, đặc biệt là với những tiết học đọc văn, trong đó có những văn bản nghị luận.
2. Kết quả khảo sát và những nhược điểm còn tồn tại trong dạy và học:
Trước thực tế đó, tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía học sinh. Cụ thể, tôi đã phát câu hỏi cho 407 học sinh lớp 10 của trường để các em phát biểu những cảm nhận và nêu ý kiến, nguyện vọng của mình khi tiếp cận các văn bản nghị luận. Nội dung câu hỏi là: Em có cảm nhận như thế nào khi học những văn bản nghị luận?
Kết quả :
+ 78,62% học sinh trả lời: Văn bản nghị luận có ý nghĩa, thực tế nhưng đa phần dài, khô khan, khó nhớ nên không thích học bằng các văn bản thuộc thể loại khác.
+ 14,99% học sinh trả lời: có thích học nhưng chưa thật sự hiểu.
+ 6,39% học sinh trả lời: không hiểu gì, không thích học.
          Kết quả trên cho thấy, phần đa học sinh không thích học văn bản thuộc thể loại nghị luận. Tuy nhiên, có đến 78,62% học sinh nhận ra ý nghĩa của văn bản nghị luận,  nghĩa là nguyên nhân các em không thích học các văn bản này là do chưa thực sự hứng thú với giờ học mà thôi.
Từ thực trạng trên, cộng với kinh nghiệm giảng dạy cá nhân, tôi nhận thấy trong dạy và học văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 còn tồn tại những nhược điểm sau:
-         Phía người dạy:
+          Tâm lí: ít hứng thú, chưa coi trọng, giờ dạy ít hào hứng.
+          Cách truyền đạt: chú ý tính nội dung văn bản nhiều hơn tính nghệ thuật, vì thế, giờ dạy thiên về lí trí hơn việc biểu đạt những xúc cảm thẩm mĩ.
+          Kết quả: nghiêng về những thông tin, dư âm của những rung cảm thẩm mĩ hạn chế.
-         Phía người học:
+          Tâm lí tiếp nhận: nghiêng về tìm hiểu những thông tin hơn là việc biểu lộ cảm xúc.
+          Cách tiếp nhận: nghiêng về mặt xã hội, chính trị.
+          Kết quả: giờ học tác phẩm thành giờ tìm hiểu lịch sử.
Với khối lượng văn bản khá nhiều và thực tế dạy - học nêu trên, tôi đề xuất một số giải pháp bước đầu mà bản thân thấy có hiệu quả trong quá trình giảng dạy.
II. Nội dung đề tài:
1. Cơ sở lý luận:
Văn nghị luận là một thể văn ra đời từ rất lâu. Ở Trung Hoa, văn nghị luận có từ thời Khổng Tử (551- 479TCN). Ở Việt Nam, văn nghị luận cũng là một thể loại có truyền thống lâu đời, có giá trị và tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử, trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Có thể kể từ Chiếu dời đô(1010) của Lí Công Uẩn (Lí Thái Tổ), Hịch tướng sĩ (1285) của Trần Quốc Tuấn cho đến Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi; từ bài Tựa Trích diễm thi tập (1497) của Hoàng Đức Lương, Chiếu cầu hiền (1788) của Ngô Thì Nhậm đến bản điều trần Xin lập khoa luật (1867) của Nguyễn Trường Tộ; Chiếu Cần Vương (1885) đến Hịch đánh Pháp sau này…
Có thể nói trong suốt trường kì lịch sử dân tộc, văn nghị luận là một thể văn phản ánh rõ nhất đời sống tinh thần, tư tưởng, ý chí và khát vọng của cả một dân tộc. Do đó, văn nghị luận ngày càng phát triển mạnh mẽ, càng trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Nội dung và cấu trúc của một văn bản nghị luận được hình thành từ các yếu tố cơ bản là: Vấn đề cần nghị luận (còn gọi là luận đề), luận điểm, luận cứlập luận (còn gọi là luận chứng). Như vậy, do văn nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và lập luận nên hệ thống các luận điểm hết sức chặt chẽ và luận cứ cũng phải xác đáng. Cho nên khi dạy loại văn bản này, người dạy nhất thiết bao giờ cũng phải khai thác hệ thống luận điểm, luận cứ và cách lập luận của văn bản. Tuy nhiên nếu chỉ đơn thuần khai thác các hệ thống luận điểm như lâu nay chúng ta vẫn làm thì bài học trở nên khô khan, khó gợi được hứng thú tích cực cho học sinh. Vì vậy trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm nhỏ, tôi xin được đề xuất một số giải pháp mang tính bổ trợ để những giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận thêm sinh động.
2. Giải pháp thức hiện:
2.1. Xuất phát từ đặc trưng phong cách thể loại mà triển khai văn bản trên các phương diện: đề tài, chủ đề (mục đích), hình thức, nội dung, ý nghĩa,… Thể loại nghị luận (tức văn chính luận) có các đặc điểm cơ bản sau đây:
2.1.1. Khái niệm:
Phong cách (PC) ngôn ngữ chính luận là PC được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội. Người giao tiếp ở PC này thường bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự nóng bỏng của xã hội. Ðây là khái niệm ít nhiều mang tính truyền thống và việc phân giới giữa phong cách này với PC ngôn ngữ khoa học, PC ngôn ngữ báo chí vẫn còn một số quan niệm chưa thống nhất. 
Để có đầy đủ SKKN ngữ văn 10 vui lòng liên hệ 0962261017 (gặp Hoàng)

SKKN Ngữ văn 9. Nâng cao hiểu quả dạy học văn nghị luận

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, ngành giáo dục đang có những bước chuyển mình theo nhịp bước của thời đại. Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cần thiết và quan trọng trong tình hình hiện nay. Mà một trong những biện pháp tối ưu trong quá trình dạy học là phương pháp dạy học tích cực và dạy học theo chuẩn kiến tức và kĩ năng. Vì vậy, để nang cao hiệu quả giáo dục ở bộ môn ngữ văn trong nhà trường hiện nay, giáo viên cần đặc biệt chú trọng hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ năng nói và viết (tạo lập văn bản) cho học sinh, nhất là rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận về tác phẩm văn học ở bậc Trung học cơ sở theo chuẩn kiến thức và kĩ năng mà ngành yêu cầu.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình làm bài kiểm tra ở lớp cũng như ở kiểm tra học kì, thi tuyển vào lớp 10 ở môn ngữ văn nhiều năm qua, học sinh làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học: Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, nghị luận về nhân vật, nghị luận về tác phẩm thơ, đoạn thơ thì còn rất nhiều hạn chế. Bài làm của học sinh thường sơ sài, chung chung, lan man, vừa thừa, vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề. Có bài chỉ viết được 7 đến 8 dòng là hết, có nhiều em không biết mở bài, không biết xây dựng luận điểm… Thực trạng ấy làm cho đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải trăn trở, phải suy nghĩ, mà nguyên nhân chính là học sinh không có kĩ nẵng viết bài, không có định hướng khi làm bài nghị luận văn học. Do đó chúng ta cần phải có cách dạy như thế nào, học sinh cần phải có cách học như thế nào để có hiệu quả giáo dực ngày một đi lên, đó là vấn đè mà thầy cô giáo cần phải quan tâm và chú trọng.

II. THỰC TRẠNG
1. Thực trạng của việc học văn hiên nay
     Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ thể là:
     - Học  sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại.
     - Khả năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng ...Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
   Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học văn hiệu quả nhất.
2. Nguyên nhân
     a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau :
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao .
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh .
- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
     b. Đối với học sinh:
- Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn.
- Địa phương xã Thọ Nghiệp thuộc vùng kinh tế còn khó khăn, hầu hết phụ huynh đều đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản thân các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.

- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập.
Để có đầy đủ SKKN vui lòng liên hệ 0962261017 (Hoàng)

SKKN Lịch sử 8. Biện pháp giúp HS học tốt Lịch sử lớp 8

1. Lí do chọn đề tài
          Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông có vai trò rất quan trọng, nó cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về lịch sử phát triển của xã hội loài người và lịch sử dân tộc. Trên cơ sở đó giáo dục, khơi dậy những tình cảm, tư tưởng, đạo đức làm chuẩn mực cho mọi hành vi trong cuộc sống, góp phần phát triển toàn diện học sinh.
Trong sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay, việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập bộ môn đang là mối quan tâm hàng đầu. Riêng với bộ môn lịch sử, người giáo viên cũng không ngừng tìm kiếm, vận dụng các biện pháp để phát huy vai trò chủ thể của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong quá trình dạy học lịch sử lớp 8 tại Trường THCS Lạc Hoà tôi đã cố gắng đi sâu vào tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của quá trình dạy – học để có biện pháp khắc phục cũng như tìm tòi, vận dụng nhiều biện pháp khác nhau vào việc hướng dẫn học sinh khám phá những tri thức mới. Từ đó nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử.


   Cơ sở lí luận
          Mục đích của việc dạy học lịch sử  ở trường là người giáo viên không chỉ giúp cho học sinh hình dung được những kết quả của quá khứ, biết và ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng của lịch sử mà quan trọng hơn là hiểu được lịch sử tức là phải nắm được bản chất của sự kiện. Trong phát triển tư duy của học sinh việc sử dụng các thao tác lô - gic có ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường giáo viên sử dụng các thao tác chủ yếu như so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản chất các sự kiện, phân tích và tổng hợp  (giúp học sinh khái quát các sự kiện), quy nạp, diễn dịch... Để thực hiện những  thao tác như vậy có thể dùng nhiều cách, nhiều phương tiện khác nhau (đồ dùng trực quan, tài liệu giải thích ....). Song như vậy chưa đủ nên giáo viên cần vận dụng nhiều biện pháp khác như nắm vững khái niệm, liên hệ kiến thức cũ, nêu vấn đề, ... để giúp học sinh nắm vững nội dung bài học.
   Cơ sở thực tiễn
           Ở tr­ường THCS Lạc Hoà, đa số học sinh còn ngại và ch­ưa có sự say mê môn học lịch sử, cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tư­ợng, nhân vật lịch sử ... còn phần hạn chế. Thực tế đó đặt ra một vấn đề là người giáo viên phải làm sao giúp học sinh hứng thú, hiểu, nhớ nội dung bài học.
          Trong quá trình dạy học lịch sử lớp 8 tôi thấy một vấn đề đặt ra là các khái niệm mới rất nhiều. Nắm được khái niệm sẽ góp phần hiểu và nhớ nội dung. Hiện nay, trong học tập, đa số học sinh còn thụ động, mà yêu cầu mới đòi hỏi các em phải là chủ thể của hoạt động học nên giáo viên cần hướng các em hoạt động nhiều hơn nên dạy học “nêu vấn đề” là quan trọng.
          Trên cơ sở đó, để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, bản thân tôi mạnh dạn trình bày: “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phần Lịch sử thế giới trong chương trình Lịch sử lớp 8 tại Trường THCS Lạc Hoà.
          Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần vào giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học hiệu quả tốt  hơn, học sinh  tích cực, chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của bài học. Đây cũng là lí do tôi chọn đề  tài này.
2. Mục đích nghiên cứu
          Khi chọn hướng nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phần Lịch sử thế giới trong chương trình Lịch sử lớp 8 tại Trường THCS …” với mục đích giúp học sinh nhớ, hiểu nội dung bài học. Qua đó yêu thích môn học để từ đó phát huy hơn nữa vai trò trung tâm của học sinh. Đồng thời giúp các em rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá một sự kiện lịch sử. Ngoài ra với mục đích để  trao đổi với đồng nghiệp để cùng nhau bổ khuyết, xây dựng cho giải pháp càng hoàn thiện hơn trong quá trình áp dụng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
       Đối với đề tài sáng kiến này tôi chỉ tập trung trình bày hai vấn đề:
          - Giúp học sinh nắm vững khái niệm;
          - Dạy học nêu vấn đề.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
    Sáng kiến kinh nghiệm này được vận dụng vào thực tế giảng dạy ở ba lớp 8A1, 8A2,, 8A3 thuộc trường THCS Lạc Hoà.

    Trong sáng kiến này các ví dụ chủ yếu lấy từ các bài thuộc phần Lịch sử thế giới cận đại.
Để có đầy đủ SKKN vui lòng liên hệ 0962261017 (gặp Dũng)