1. Cốt truyện:
- Tác phẩm kể về sự việc gì?
- Thông qua cốt truyện tác giả muốn phản
ánh hiện thực gì?
- Tư tưởng tình cảm nào được tác giả gửi
gắm vào tác phẩm?
2. Nhân vật:
- Tác phẩm có mấy nhân vật, nhân vật chính
là ai?
- Nhận diện được nhân vật chính diện;
Nhân vật phản diện.
- Ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói,
nội tâm của nhân vật như thế nào, thông qua đó để khái quát nên đặc điểm về
phẩm chất và tính cách của nhân vật.
3. Tình huống: Tình huống cơ bản của truyện là tình
huống nào? Qua tình huống ấy nhân vật
bộc lộ tính cách gì? Từ đó tác giả muốn
gửi gắm điều gì? Nghệ thuật tạo tình huống của nhà văn có gì đặc sắc, độc đáo
trong việc góp phần xây dựng tính cách nhân vật , thể hiện ý nghĩa của truyện?
...
* Lưu ý: Một nhân vật văn học thành công bao giờ cũng mang một tính
cách, số phân riêng. Muốn phân tích nhân vật tức là phân tích đặc điểm tính cách
và nội tâm của nhân vật chúng ta cần
căn cứ vào những chi tiết có liên quan đến nhân vật trong tác phẩm để tìm hiểu
suy luận rồi khái quát nên các đặc điểm của nhân vật. Trong các tác phẩm tự sự,
những chi tiết có giá trị góp phần thể hiện đặc điểm nhân vật gồm: lai lịch,
ngoại hình, ngôn ngữ, hành vi (cử chỉ, hành động) của nhân vật. Cụ
thể là:
a.
Lai lịch của nhân vật: Đây là phương tiện đầu tiên góp phần chi phối đặc
điểm tính cách và cuộc đời nhân vật. Lai lịch có quan hệ khá trực tiếp và quan
trong với đường đờì của một người cũng như mục đầu tiên trong bản “ sơ yếu li
lịch” ta thường khai là thành phần xuất thân và hoàn cảnh gia đình.
Ví dụ: Lai lịch của Mã Giám Sinh được Nguyễn Du giới thiệu ngắn gọn
qua hai câu thơ:
Hỏi
tên rằng: Mã Giám Sinh.
Hỏi
quê rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
b. Ngoại hình của nhân vật.
Tục ngữ Việt nam có câu: “ Xem mặt
mà bắt hình rong” trong văn học, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp để
nhà văn hé mở tính cách nhân vật. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét
phác hoạ chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản
chất của nhân vật nào đó.
Ví dụ: Trong tác phẩm Tắt
đèn của Ngô Tất Tố, chị Dậu được miêu tả có khuôn mặt trái xoan với cái
nhanh nhẩu của đôi mắt sắc ngọt, cái xinh xắn của cặp môi đỏ tươi, cái min màng
của nước da đen giòn. Khuôn mặt ấy khiến người đọc hình dung về chị Dậu - một
người khoẻ khoắn thông minh đảm đang tháo vát. Với nhà thơ Nguyễn Du để làm nổi
bật vẻ đẹp của Thuý Kiều, ông tập trung đặc tả qua hai câu thơ: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn - Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Bút pháp ước lệ đã
gúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp tuyệt sắc giai nhân của nàng Kiều. Vẻ đẹp của
nàng làm hoa phải ghen, liễu phải hờn. Thông qua cách miêu tả đó Nguyễn Du như
muốn dự cảm về cuộc đời long đong lận đận của Kiều.
c. Ngôn ngữ của nhân vật
Ngôn ngữ của nhân vật trong tác
phẩm văn học được cá thể hoá cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân.
Thông thường, mỗi con người thường theo tính khí mà có khẩu khí. Con người làm
sao thì lời ăn tiếng nói làm vậy. Vì thế khi phân tích nhân vật ta cần đặc biệt
chú ý phân tích ngôn ngữ của nhân vật.
Ví dụ: Trong văn bản Làng, nhà văn Kim Lân đã để
nhân vật ông Hai bộc lộ bản chất, tính cách của mình qua ngôn ngữ đối thoại, độc
thoại và độc thoại nội tâm: Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về
làng quê. Cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong
đời sống vật chất và tinh thần. Ông căm thù lũ việt gian bán nước mà rít lên: Không biết chúng bay ăn miếng cơm hay ăn
miếng gì vào mồm mà lại làm cái giống việt gian bán nước để nhục nhã thế này!
Rồi ông vui mừng khi tin về làng Dầu được cải chính.
d. Nội
tâm của nhân vật: Nội
tâm là thế giới bên trong của nhân vật gồm cảm giác, cảm xúc tình cảm, tâm
lí, suy nghĩ… của con người. Thế giới nội tâm của con người rất sâu kín, phong phú, phức
tạp. Ngòi bút của nhà văn có khả năng miêu tả được những ngõ ngách xâu kín của
nội tâm con người từ những điều thuộc phạm vi ý thức đến những điều trong cõi
tiềm thức, vô thức. Qua đó ta có thể xét đoán được tính cách nhân vật.
Ví dụ: Miêu
tả nỗi nhớ gia đình, người thân của Kiều khi nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích, Nguyễn Du đã viết: Xót người tựa
cửa hôm mai - Quạt nồng ấp lạnh những
ai đó giờ. Người đọc có
thể nhận ra được nỗi đau đớn xót xa của Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Kiều thương
cho cha mẹ đã già yếu mà vẫn ngày đêm tựa cửa ngóng trông tin nàng, thương cha
mẹ già yếu mà không người chăm sóc đỡ đần. Để làm nổi bật tâm trạng đau đớn,
thất vọng của anh Sáu khi bé Thu không nhận anh là cha, nhà văn Nguyễn Quang
Sáng miêu tả qua các biểu hiện như: Còn
anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại
trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy... rồi chi tiết: Có lẽ vì khổ tâm vì khổ tâm đến nỗi anh
không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi...
e. Cử chỉ hành động của nhân vật: Đây là chi tiết quan trong nhất trong
việc tìm hiểu phân tích tính cách nhân vật. Con người trong cuộc đời cũng như
nhân vật trong tác phẩm, trước hết là con người hoạt động, hành động. Trong môi
trường tự nhiên và xã hội, trong quan hệ với người khác, với công việc, con
người phải hành động. Hành động của con người được thể hiện qua việc làm, hành
vi. Nhân vật trong tác phẩm cũng vây, con người thế nào sẽ có hành vi thế ấy.
Ví dụ: Chỉ cần qua cách “ ghế trên ngồi tót sỗ sàng” nhân vật Mã
Giám Sinh đã để lại chân tướng của một con người thiếu văn hoá, mất lịch sự và
bộ dạng lưu manh giả danh trí thức của y.
Tóm lại: Muốn phân tích nhân vật, ta
phải chú ý đến những chi tiết có liên quan đến nhân vật từ lai lich, ngoại
hình, nội tâm đến ngôn ngữ hành vi của nhân vật. Tuy nhiên không phải bất cứ
nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các phương diện này. Có chỗ
nhiều, có chỗ it, có chỗ đậm, chỗ nhạt. Bởi thế khi phân tích cần tập trung
xoáy sâu vào các phương diện cơ bản nhất trong tác phẩm.