Tóm tắt nội dung chính Truyện Kiều


Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái "sắc nước hương trời" và có tài "cầm kỳ thi họa".
Theo kịch tính của tác phẩm, có thể chia truyện thành 13 phần nhỏ như sau:


Tóm tắt nội dung chính Truyện Kiều

Mở đầu

Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện. Sau đó tác giả nói về gia thế và tả tài sắc hai chị em Vân - Kiều.

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.


Kiều thăm mộ Đạm Tiên

Vào khoảng thời vua Minh Thánh Tông (1522-1566), trong một gia đình viên ngoại họ Vương có 3 người con, con cả là Vương Thúy Kiều, sau là Thúy Vân và Vương Quan là cậu út. Hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân thì "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài, sắc" thì Thúy Kiều lại hơn hẳn cô em. Trong một lần đi tảo mộ vào tiết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên, một "nấm đất bên đàng", Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một "kiếp hồng nhan" "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây "hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói chung:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung


Kiều gặp Kim Trọng

Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng, là một người "vốn nhà trâm anh", "đồng thân" với Vương Quan, từ lâu đã "trộm nhớ thầm yêu" nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa". Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì hai người "tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư:

Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không


Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Kiều đã gặp nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thúy Kiều là một người sắc sảo, cô đã thuyết phục được Kim Trọng:

Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân


Kiều bán mình chuộc cha

Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Bọn sai nha đầu trâu, mặt ngựa đã đánh đập cha và em nàng một cách tàn nhẫn trong nỗi oan kêu trời không thấu. Trong hoàn cảnh bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước "trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai" với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để thọ tang chú. Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:

Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình:
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!'
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây


Do đau thương quá nên Thúy Kiều đã ngất đi trên tay người thân.

Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú bà

Mã Giám Sinh vốn là "một đứa phong tình đã quen" cùng với Tú bà mở hàng "buôn phấn bán hương", chuyên đi mua gái ở các chốn về "lầu xanh". Thấy Thúy Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về, lấy tiếng là làm vợ nhưng sau khi "con ong đã tỏ đường đi lối về", Thúy Kiều đã bị Tú bà bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà đành nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lòng:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.


Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi


Kiều mắc lừa Sở Khanh

Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh, một gã có "hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng" và cũng khá "văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lường gạt sáo rỗng của Sở Khanh.

Than ôi! sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?


Kiều vội vàng trao thân cho Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:

Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
Một tay chôn biết mấy cành phù dung!


Đến lúc này, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác "đến phong trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa


Kiều gặp Thúc Sinh

Thúc Sinh tuy đã có vợ là Hoạn Thư nhưng cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi" từ lâu. Thúc Sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc Sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân đầy nhục dục của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh

Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.


Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".

Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.


Thúc Sinh đã chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, chàng yêu Thúy Kiều bằng một tình yêu chân thực và trân trọng cô, điều này thể hiện tính nhân văn của truyện Kiều. Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc Ông (bố của Thúc Sinh) thừa nhận. Thúc Ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:

Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!


Kiều quyết tâm dan díu với Thúc Sinh không chịu quay về lầu xanh nên lại thêm một lần khốn khổ:

Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.


May thay vị quan đó tuy tỏ ra nghiêm khắc nhưng cũng có tình người. Thấy Thúc Sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, ông đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc Ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ chính của Thúc Sinh.

Kiều và Hoạn Thư

Khi biết chuyện, cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi biết Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, bố của Thúc Sinh đã phải thốt lên:

Thương vì hạnh trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba


Kiều đã ở cùng Thúc Sinh suốt 1 năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc Sinh về thăm vợ cả Hoạn Thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc Sinh không ngờ rằng Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thúy Kiều về tra hỏi. Thúy Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn Thư với cái tên là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà, nhìn thấy Thúy Kiều bị bắt ra chào mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn Thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn:

Bốn giây như khóc như than
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm


Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì lý do gì. Thúy Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn Thư đánh kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn ghen" của Hoạn Thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình!", "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc Sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp Sư trưởng Giác Duyên (duyên giác ngộ?). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc Bà, một Phật tử thường hay lui tới chùa. "Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn", Bạc Bà đã khuyên kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh. Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh.

Kiều gặp Từ Hải

Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sóng cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có mọt người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải, một hải tặc lừng danh thời đó: "Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười tấc cao", tài năng phi thường "đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài". Hai bên đã phải lòng nhau và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thúy Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi:

Nàng rằng phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi
Từ rằng tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình


Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã "da mồi tóc sương", còn em Thúy Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với Kim Trọng. Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy

Kiều báo thù

Lúc vui mừng cũng là lúc Thúy Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Những Bạc Bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,... đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói "Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình" nên được tha. Sau đó Kiều có gặp sư Giác Duyên, được bà báo rằng 5 năm nữa hai người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận nữa.

Kiều tự vẫn

Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thúy Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống "an bình" của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:

Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.


Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thúy Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã "chết đứng giữa đàng". Thúy Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:

Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!


Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải "thị yến dưới màn", Thúy Kiều đã khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho "cảo táng di hình bên sông". Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi đàn, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:

Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.


Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều cho người Thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau", nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự vẫn.

Kim Trọng đi tìm Kiều

Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:

Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai
Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê


Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặn của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thúy Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "âu duyên mới" nhưng chàng lại "càng dào tình xưa". Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin của Thúy Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường. Ra đến sông, mọi người gặp sư Giác Duyên ở đó, được biết là Thúy Kiều đã được bà cứu mang về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, "mừng mừng tủi tủi".

Tái hồi Kim Trọng

Sau 15 năm lưu lạc, Thúy Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thúy Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thúy Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:

Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta 


Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa. Hai người trở thành bạn "chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ". Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thúy Kiều:

Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Hình tượng dải yếm trong ca dao tình yêu

1Là một bộ phận không nhỏ của thơ ca dân gian, ca dao tình yêu đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng đậm đà sâu sắc. Đó là tiếng tơ đàn muôn điệu chắt lọc từ trái tim yêu của nam nữ thanh niên nông thôn vừa mộc mạc hồn hậu, vừa tinh tế thanh cao. Tình yêu ấy được bộc lộ bằng nhiều cách khác nhau, song cách thông qua các vật dụng thông dùng của cá nhân thu hút sự chú ý hơn cả ... Ở đó, dải yếm được sử dụng như một ám ảnh nghệ thuật, một tín hiệu thẩm mĩ độc đáo mà có lẽ hiếm có sự vật nào có được.
2. Đọc ca dao tình yêu, dễ thấy dải yếm là vật dụng trang sức gần gũi, thân thiết không chỉ có chức năng che chắn, bảo vệ mà còn góp phần tôn lên vẻ đẹp của người con gái. So với áo khăn gương lược, nó có vẻ gần gũi với thịt da, mang hơi ấm mùi hương nên gợi sức quyến rũ nhiều hơn cả. Nhắc đến dải yếm là nhắc đến người con gái xinh đẹp có sức thu hút như những thỏi nam châm: Mỗi tranh vẽ một cô tiên/ Cô đàn cô sáo, cô gõ sênh tiền đẹp sao/ Cô nào yếm cũng lòng đào/ Cô nào mắt cũng như sao trên trời. Với những đôi trai gái yêu nhau, dải yếm là cái cớ để họ giao duyên tình tự, thể hiện khát vọng, ước mơ theo cách của riêng mình : Ước gì sông hẹp một gang/ Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
Khi yêu nhau, mỗi người đều có quyền mơ ước nhưng có lẽ ước mơ "bắc cầu dải yếm" là điều ước hay nhất, đẹp nhất, nên thơ và gợi cảm nhất. Khao khát được gần nhau cho thỏa nhớ mong đã thúc giục "người nữ kiến trúc sư thiên tài này" thiết kế nên chiếc cầu dải yếm độc đáo dành tặng riêng cho người yêu của mình. Chỉ có nghệ thuật dân gian mới có thể sáng tạo ra một cái cầu như thế. Chỉ khi luôn nghĩ đến người yêu, luôn nuôi khát vọng yêu thương cháy bỏng, chân thành, người thiếu nữ mới làm nên điều kì diệu như vậy. "Khi yêu cũng như khi say, con người thường thoát li điều kiện thực tế vào suy nghĩ một cách tự do, hồn nhiên theo khát vọng mãnh liệt của trái tim mình" (1). Thiết nghĩ, khát khao bắc chiếc cầu dải yếm của cô gái đâu chỉ là mong muốn thu hẹp khoảng cách địa lí thông thường mà còn là khát vọng xoá bỏ ranh giới ngăn cách trong tình yêu, ước mong về một tình yêu đủ đầy, trọn vẹn cả thể xác lẫn tâm hồn - một khát vọng mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Nói như một nhà nghiên cứu, khi còn sống, đó là những ước mơ mãnh liệt, những khát khao cháy bỏng của người con gái (Ước gì dải yếm em to, Để em buộc lấy mũi đò kéo lên, Ước gì dải yếm em bền, Để em buộc lấy kéo lên trên bờ)thì đến khi chết ước mơ lại càng kì diệu đẹp đẽ hơn(2)
Kiếp sau đừng hóa ra người
Hóa ra dải yếm buộc người tình nhân
3. Tình yêu được ví như trái cây, phải trải bao năm nhung tháng nhớ, qua nắng giận mưa hờn để đến mùa ửng chín ngọt ngào. Nếu dải yếm là biểu tượng cho vẻ đẹp người con gái, vì đó mà trở thành cái cớ để những chàng trai cô gái gặp gỡ, giao duyên thì cố nhiên dải yếm còn là biểu tượng thiêng liêng, kì diệu cho một tình yêu thuỷ chung son sắt, vững bền : Mình về có nhớ ta chăng/ Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình/ Ta về ta cũng nhớ mình/ Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.
Tình yêu luôn đồng hành với nỗi nhớ. Yêu cuồng nhiệt thì nhớ cũng nát tan. Chỉ qua cách xưng hô tha thiết, thân mật "mình - ta" đã thể hiện tình yêu sâu đậm. Tình yêu ấy còn hiện hình trong trí nhớ của "ta" mang về. Nỗi nhớ không mông lung xa vời, không ảo ảnh vô định mà cụ thể rõ ràng bởi xuất phát từ một tình yêu có thật : "Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao". Thật tinh tế, dung dị. Thật thông minh, kín đáo. Chàng trai đã thổ lộnhững tín hiệu ngầm chỉ hai người biết. Yếm mình mặc có màu sắc gì, mùi hương gì - chỉ có ta và mình biết, còn  tình mình trao cũng chỉ có mình và ta mới thấu hiểu.
Tình yêu vốn là điều khó nói, bởi nó lắm sắc thái, tầng bậc mà mỗi người đều có cách yêu và biểu hiện tình yêu của riêng mình. Ông hoàng của thơ tình đã từng quả quyết : "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu". "Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau" - chẳng phải tín đồ ngoan đạo của ái tình giáo - nữ sĩ Xuân Quỳnh, cũng đã từng bất lực thổn thức đó sao ? Cô gái trong bài ca dao dưới đây thật độc đáo khi bộc lộ niềm thương nỗi nhớ : Thương anh chẳng biết để đâu/ Đùm đầy dải yếm lâu lâu lại nhìn. Yêu anh mới để tình yêu ấy vào nơi dải yếm - bởi đó là tâm điểm của tình yêu, nỗi nhớ... Dải yếm còn gì khác hơn là biểu tượng cho tình yêu thắm thiết, mãnh liệt vững bền ?  Nhìn dải yếm là nhìn thấy tình mình trong đó. Hồn nhiên, chân thành song không kém phần đắm say, lãng mạn, nồng nàn của tuổi trẻ. Tình yêu giúp con người ta lớn hơn mình đã lớn, trưởng thành hơn mình đã trưởng thành, và làm được những việc tưởng chừng không thể : Đêm nằm đắp chục chiếc chăn/ Làm sao sánh được ấm bằng yếm em.
Táo bạo và mạnh dạn hơn, một chàng trai khác đã khẳng định sức mạnh vô song mà dải yếm tình yêu mang lại : Trời mưa, trời gió kìn kìn/ Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông.Kì diệu thay, chính trong cái lạnh lẽo, rét mướt kèm theo nỗi buồn và cảm giác cô đơn kéo dài của tiết trời khắc nghiệt ấy, chàng trai lại cảm thấy ấm áp vì bên anh đã có đôi dải yếm của người yêu, vì tim anh đã đầy ắp tình yêu và kì vọng vào một tương lai tốt đẹp vững bền : "đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông". Dẫu biết rằng chàng trai thi vị hóa, lí tưởng hóa, thoát li khỏi hiện thực cuộc sống để tận hưởng sự ấm áp kì lạ từ đôi dải yếm của người yêu song ta cũng phải thừa nhận rằng : chính tình yêu đã làm cho cuộc đời anh "nở hoa kết trái". Phải chăng câu ca dao muốn gửi đến thông điệp : Hãy biết trân trọng tình yêu. Vì chính sức mạnh tình yêu sẽ "sưởi ấm tâm hồn, xua tan cái cái lạnh lòng đáng sợ"(3) giúp con người vượt lên trên khó khăn, thử thách của đời sống ?
Đến với bài ca dao khác, ta sẽ cảm nhận được sức mạnh mới mà đôi dải yếm mang lại :Thuyền anh mắc cạn lên đây/ Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền. Thật ngộ nghĩnh và dễ mến. Một cái cớ được đặt ra thật lạ mà có lẽ chỉ có trong ca dao, ở lối tư duy đặc biệt của người đang yêu. Ai cũng biết dải yếm đâu thể dùng làm dây huống hồ lại làm dây kéo thuyền mắc cạn. Thực ra đây chỉ là ngụy cớ vì nó ngược với logic thông thường. Đằng sau cái cớ tưởng chừng "vớ vẩn" này còn gì khác hơn là thừa nhận sự quan trọng của đôi dải yếm ? Chỉ có đôi dải yếm em đeo mới giúp được thuyền anh vượt qua khó khăn. Và cũng chỉ nhờ yếm em, thuyền anh mới có thể sinh tồn, trở về nơi sông bể. Thế cho nên yếm em chính là tình em. Thuyền anh, vì thế cũng trở thành thuyền tình khát khao vượt qua sông ngăn bể cách để cập bến tình duyên. Mượn chuyện dải yếm để khẳng định chân lí : "Sức mạnh của tình yêu là vô địch" (4). Chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đưa con người về với cộng đồng dân tộc, với quê hương xứ sở của mình, chỉ khi ấy con người mới thật là mình
Tình yêu cần thiết cho cuộc sống, nhưng không phải tình yêu nào cũng cập được bến bờ hạnh phúc - "hôm nay yêu, mai có thể xa rồi". Bài ca dao đối đáp của đôi nam nữ khởi đầu với một tình yêu sâu đậm nhưng kết cục trái ngang, phũ phàng sẽ giúp ta tìm ra sự hợp lí trong sự chuyển đổi sắc hoa:- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím/ Em lấy chồng rồi trả yếm cho anh/ - Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh/ Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi!. Sắc màu của hoa cúc đã trở thành sắc màu của thái độ, của ảo giác tâm trạng. Lẽ thường, họ cúc vàng nở ra hoa cúc vàng, nhưng ở đây với cô gái - "hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím"; với chàng trai -"hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh". Sự biến đổi màu hoa cốt để nói về dải yếm - cũng là tình yêu của họ. Dải yếm ngày nào cùng trân trọng, nâng niu, kỉ vật chứng giám cho lời thề non hẹn biển của tình yêu son sắt (Dưới mặt đất chói lòa yếm đỏ/ Trên bầu trời rạng tỏ mây xanh) giờ trở thành vật trao qua trả lại. Với cô gái, tình yêu không còn thì kỉ vật còn đâu ý nghĩa ban đầu của nó. Giữ làm chi cho buồn lòng. Trước khi lấy chồng, cô muốn "xoá hết nợ nần" nhỡ lắm muộn phiền cho ngày sau. Cách duy nhất cô quyết định : "trả yếm lại cho anh" - mong quên được quá khứ. Còn chàng trai nào có vui gì khi tình yêu không thành. "Hoa cúc vàng" dưới ánh mắt đầy tâm trạng "nở ra hoa cúc xanh". Chàng trai không nhận yếm em trả lại vì cớ "yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi". Chừng như người con trai muốn khẳng định tình yêu ấy là có thật dẫu duyên không thành. Mong dải yếm luôn bên em che chắn, bảo vệ và tô điểm cho em dẫu quãng đời còn lại của em không còn anh sánh bước. Riêng anh không đòi hỏi gì thêm nữa vì "tình đã cho không lấy lại bao giờ".
4. Vậy đấy, cái cớ để bộc lộ tâm tư, cái cách bộc lộ tâm trạng của người chớm yêu, đang yêu và đã yêu thông qua dải yếm mà chúng tôi đã khảo sát cho thấy dải yếm có tầm quan trọng đặc biệt trong ca dao tình yêu. Tác giả dân gian đã khéo léo thổi hồn mình vào dải yếm thanh mảnh, biến nó thoát khỏi chức năng thông thường để thể hiện tình cảm nỗi niềm khát khao tình yêu, hạnh phúc và óc thông minh, hóm hỉnh của mình. Nhìn từ góc độ thi pháp, dải yếm - cũng như thuyền, bến, áo, khăn, ... - hoàn toàn có thể trở thành một biểu tượng trong ca dao tình yêu, biểu tượng vẻ đẹp của người con gái, của tình yêu thủy chung sâu nặng, son sắt, vững bền...
 Mỗi lần thưởng thức thơ ca dân gian là mỗi lần ta lắng lòng và nghe thấy trong đó tiếng tơ đàn muôn điệu của quần chúng nhân dân lao động. Tìm hiểu ý nghĩa của hình tượng dải yếm trong ca dao tình yêu, ta không chỉ nhận ra rằng tình yêu của những người tưởng chừng chỉ biết mỗi việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy ấy lại rất đẹp và đáng trân trọng biết bao mà còn thấy rất rõ đời sống văn hóa tinh thần của họ. Đó là đời sống của những con người quanh năm "cấy cày ruộng sâu, ở trong làng bộ" (thuộc nền văn minh nông nghiệp lúa nước). Đó là lối hát giao duyên đối đáp của người bình dân xưa. Đó còn là chất hóm hỉnh, chân thành, bộc trực mà không kém phần khéo léo, hồn nhiên mộc mạc mà tinh tế sâu sắc. Đó là sự quý trọng tình cảm, lối sống chung thuỷ nghĩa tình, là khát vọng đời sống hạnh phúc gia đình đậm tính nhân bản, nhân văn. Đó còn là dấu ấn của chế độ mẫu hệ - thiên tính nữ của cội nguồn dân tộc.
 Lê Tấn Thích
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1)Hoàng Tiến Tựu : Bình giảng ca dao - NXB giáo dục 2000. tr.46
(2)Nguyễn Xuân Lạc : Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường - NXB Giáo dục - 1998. tr.177

(3), (4) Trần Thị Trâm : "Điều kì diệu của đôi dải yếm" - Tuyển tập mười năm Tạp chí văn học và tuổi trẻ - NXB giáo dục - 2003. tr 82, 84

Những phương diện cơ bản khi phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự

1. Cốt truyện:
- Tác phẩm kể về sự việc gì?
- Thông qua cốt truyện tác giả muốn phản ánh hiện thực gì?
- Tư tưởng tình cảm nào được tác giả gửi gắm vào tác phẩm?
2. Nhân vật:
- Tác phẩm có mấy nhân vật, nhân vật chính là ai?
- Nhận diện được nhân vật chính diện; Nhân vật phản diện.
- Ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời nói, nội tâm của nhân vật như thế nào, thông qua đó để khái quát nên đặc điểm về phẩm chất và tính cách của nhân vật.
3. Tình huống: Tình huống cơ bản của truyện là tình huống nào?  Qua tình huống ấy nhân vật bộc lộ tính cách gì? Từ  đó tác giả muốn gửi gắm điều gì? Nghệ thuật tạo tình huống của nhà văn có gì đặc sắc, độc đáo trong việc góp phần xây dựng tính cách nhân vật , thể hiện ý nghĩa của truyện? ... 

     * Lưu ý: Một nhân vật văn học thành công bao giờ cũng mang một tính cách, số phân riêng. Muốn phân tích nhân vật tức là phân tích đặc điểm tính cách và nội tâm  của nhân vật chúng ta cần căn cứ vào những chi tiết có liên quan đến nhân vật trong tác phẩm để tìm hiểu suy luận rồi khái quát nên các đặc điểm của nhân vật. Trong các tác phẩm tự sự, những chi tiết có giá trị góp phần thể hiện đặc điểm nhân vật gồm: lai lịch, ngoại hình, ngôn ngữ, hành vi (cử chỉ, hành động) của nhân vật. Cụ thể là: 
 a. Lai lịch của nhân vật: Đây là phương tiện đầu tiên góp phần chi phối đặc điểm tính cách và cuộc đời nhân vật. Lai lịch có quan hệ khá trực tiếp và quan trong với đường đờì của một người cũng như mục đầu tiên trong bản “ sơ yếu li lịch” ta thường khai là thành phần xuất thân và hoàn cảnh gia đình.
     Ví dụ: Lai lịch của Mã Giám Sinh được Nguyễn Du giới thiệu ngắn gọn qua hai câu thơ:
Hỏi tên rằng: Mã Giám Sinh.
Hỏi quê rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
b. Ngoại hình của nhân vật.
     Tục ngữ Việt nam có câu: “ Xem mặt mà bắt hình rong” trong văn học, miêu tả ngoại hình chính là một biện pháp để nhà văn hé mở tính cách nhân vật. Một nhà văn có tài thường chỉ qua một số nét phác hoạ chấm phá có thể giúp người đọc hình dung ra diện mạo, tư thế cùng bản chất của nhân vật nào đó.
     Ví dụ: Trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chị Dậu được miêu tả có khuôn mặt trái xoan với cái nhanh nhẩu của đôi mắt sắc ngọt, cái xinh xắn của cặp môi đỏ tươi, cái min màng của nước da đen giòn. Khuôn mặt ấy khiến người đọc hình dung về chị Dậu - một người khoẻ khoắn thông minh đảm đang tháo vát. Với nhà thơ Nguyễn Du để làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều, ông tập trung đặc tả qua hai câu thơ: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn - Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Bút pháp ước lệ đã gúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp tuyệt sắc giai nhân của nàng Kiều. Vẻ đẹp của nàng làm hoa phải ghen, liễu phải hờn. Thông qua cách miêu tả đó Nguyễn Du như muốn dự cảm về cuộc đời long đong lận đận của Kiều.
c. Ngôn ngữ của nhân vật
     Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm văn học được cá thể hoá cao độ, nghĩa là mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Thông thường, mỗi con người thường theo tính khí mà có khẩu khí. Con người làm sao thì lời ăn tiếng nói làm vậy. Vì thế khi phân tích nhân vật ta cần đặc biệt chú ý phân tích ngôn ngữ của nhân vật.
     Ví dụ: Trong văn bản Làng, nhà văn Kim Lân đã để nhân vật ông Hai bộc lộ bản chất, tính cách của mình qua ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm: Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê. Cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần. Ông căm thù lũ việt gian bán nước mà rít lên: Không biết chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà lại làm cái giống việt gian bán nước để nhục nhã thế này! Rồi ông vui mừng khi tin về làng Dầu được cải chính. 
d. Nội tâm của nhân vật: Nội tâm là thế giới bên trong của nhân vật gồm cảm giác, cảm xúc tình cảm, tâm lí, suy nghĩ… của con người. Thế giới nội tâm của con người rất sâu kín, phong phú, phức tạp. Ngòi bút của nhà văn có khả năng miêu tả được những ngõ ngách xâu kín của nội tâm con người từ những điều thuộc phạm vi ý thức đến những điều trong cõi tiềm thức, vô thức. Qua đó ta có thể xét đoán được tính cách nhân vật.
     Ví dụ: Miêu tả nỗi nhớ gia đình, người thân của Kiều khi nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã viết: Xót người tựa cửa hôm mai - Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Người đọc có thể nhận ra được nỗi đau đớn xót xa của Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Kiều thương cho cha mẹ đã già yếu mà vẫn ngày đêm tựa cửa ngóng trông tin nàng, thương cha mẹ già yếu mà không người chăm sóc đỡ đần. Để làm nổi bật tâm trạng đau đớn, thất vọng của anh Sáu khi bé Thu không nhận anh là cha, nhà văn Nguyễn Quang Sáng miêu tả qua các biểu hiện như: Còn anh, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy... rồi chi tiết: Có lẽ vì khổ tâm vì khổ tâm đến nỗi anh không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi...
e. Cử chỉ hành động của nhân vật: Đây là chi tiết quan trong nhất trong việc tìm hiểu phân tích tính cách nhân vật. Con người trong cuộc đời cũng như nhân vật trong tác phẩm, trước hết là con người hoạt động, hành động. Trong môi trường tự nhiên và xã hội, trong quan hệ với người khác, với công việc, con người phải hành động. Hành động của con người được thể hiện qua việc làm, hành vi. Nhân vật trong tác phẩm cũng vây, con người thế nào sẽ có hành vi thế ấy.
     Ví dụ: Chỉ cần qua cách “ ghế trên ngồi tót sỗ sàng” nhân vật Mã Giám Sinh đã để lại chân tướng của một con người thiếu văn hoá, mất lịch sự và bộ dạng lưu manh giả danh trí thức của y.
     Tóm lại: Muốn phân tích nhân vật, ta phải chú ý đến những chi tiết có liên quan đến nhân vật từ lai lich, ngoại hình, nội tâm đến ngôn ngữ hành vi của nhân vật. Tuy nhiên không phải bất cứ nhân vật nào cũng được nhà văn thể hiện đầy đủ các phương diện này. Có chỗ nhiều, có chỗ it, có chỗ đậm, chỗ nhạt. Bởi thế khi phân tích cần tập trung xoáy sâu vào các phương diện cơ bản nhất trong tác phẩm.