I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Theo tôi mọi người trong cuộc sống cần phải hiểu biết về kiến thức lịch sử, như hiểu về tổ tông và cội nguồn của mình. Chính vì lẻ đó Bác Hồ kính yêu của chúng mình đã mở đầu lịch sử Việt Nam bằng hai câu thơ:
Theo tôi mọi người trong cuộc sống cần phải hiểu biết về kiến thức lịch sử, như hiểu về tổ tông và cội nguồn của mình. Chính vì lẻ đó Bác Hồ kính yêu của chúng mình đã mở đầu lịch sử Việt Nam bằng hai câu thơ:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Thật vậy lịch sử chính là cội nguồn của dân tộc, nó là
con thuyền quá khứ đưa ta đến bến bờ hiện tại và tương lai tươi sáng. Chúng ta
ngược dòng thời gian trở về quá khứ hào hùng của dân tộc, ngay từ thuở ban đầu
dựng nước và giữ nước, bằng sức chiến đấu kiên cường và ý chí bền bỉ của dân
tộc ta đã lập nên chién công hiển hách phá tan mọi âm mưu mọi xâm lược của
ngoại ban, xây dựng và bồi đắp nên một nền văn hóa rực rỡ. Do đó là con dân của
một dân tộc anh hùng thì việc mỗi người cần phải hiểu biết về kiến thức lịch sử
là vô cùng quan trọng. Vì vậy nhà trường phổ thông chịu trách nhiệm cùng với xã
hội hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, giúp các em có những hiểu biết
về quá khứ, truyền thống của dân tộc, tự hào về thành tựu dựng nước và giữ nước
của tổ tiên, xác định nhiệm vụ hiện tại, có thái độ đúng với sự phát triển hợp
qui luật của tương lai.
Qua thực tế tìm hiểu tôi được biết môn lịch sử ở
trường phổ thông hiện nay bị xem là môn phụ. Từ đó các em xem nhẹ ít quan tâm
cho nên làm hạn chế đến sự tiếp thu kiến thức lịch sử.
Cuộc khảo sát chất lượng đầu năm học: 2011-20012 kết
quả như sau:
Tổng số
có 73 học sinh:
- Loại giỏi có 03
em.
- Loại khá có 09 em.
- Loại trung bình có 50 em.
- Loại trung bình có 50 em.
-
Loại yếu còn 11 em.
Đi sâu vào tìm hiểu tôi rút ra những nguyên nhân dẫn
đến học yếu môn lịch sử ở học sinh hiện nay là:
- Đa số các em có quan niệm và thực hiện một cách sai
trái trong việc “thu gọn” cách học tập lịch sử, chỉ biết và nhớ (học
thuộc lòng sự kiện) do đó một thời gian sau quên mất kiến thức.
- Mặt khác ngày nay các trường phổ thông hầu như vẫn
còn dạy theo phương pháp truyền thống, đó là thầy đọc trò chép, ghi nhớ thuộc
lòng một cách máy móc, hệ quả tất yếu là giảm sút chất lượng bộ môn dẫn đến một
số em nhớ sai, lầm lẩn kiến thức lịch sử.
- Học lịch sử cũng như học các môn khác cần phải có
trí nhớ, xong nhớ không phải là mục đích của học lịch sử, mà chủ yếu là phải
hiểu, phải phát huy tính tích cực và sáng tạo. Đó là vấn đề làm tôi luôn trăn
trở lo lắng về phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.
- Trên cơ sở xác định việc trang bị kiến thức lịch sử
cho học sinh là cần thiết nên tôi bắt tay vào việc nghiên cứu và chọn đề tài
vừa với khả năng của mình, mà bấy lâu nay tôi hằng ôm ấp đó là “phát huy
tính tích cực và tư duy cho học sinh trong viêc dạy học lịch sử ở trường THCS”.
II/
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Nhận biết tầm quan trọng của lịch sử đối với thế hệ
trẻ là cần thiết cho nên để đạt kết quả cao trong dạy học lịch sử, nhằm phát
huy tính tích cực tư duy sáng tạo cho học sinh. Tôi đã nghiên cứu tìm ra và vận
dụng vào một số phương pháp sau đây:
1. Phương pháp sử dụng sách giáo khoa để phát triển tư
duy cho học sinh:
Sách giáo khoa là tài liệu viết cho học sinh và cũng
là cơ sở để giáo viên chuẩn bị bài giảng, xác định hệ thống kiến thức cần cung
cấp cho học sinh. Thông qua sách giáo khoa ta xác định gồm 03 quá trình sau
đây:
a/ Sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng:
Trước khi soạn giáo án người giáo viên cần nghiên cứu
nội dung toàn bài trong sách giáo khoa. Sau đó xác định kiến thức cơ bản của
bài, hiểu rõ mục đích yêu cầu mà tác giả mong muốn ở học sinh về mặt kiến thức,
tư tưởng, kỹ năng. Khi đã có cái nhìn toàn diện khái quát, rồi mới đi sâu vào
từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan của kiến thức đó
đối với kiến thức cơ bản của toàn bài.
Mỗi bài có từ 02 - 03 đề mục nhỏ có liên quan chặt chẽ
với nhau song không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức
của từng phần, mà chúng ta cần phải xác định phần nào là trọng tâm phần nào cần
lướt qua.
Ví dụ 1:
Khi dạy bài 11: CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á CUỐI THẾ KỈ XIX
ĐẦU THẾ KỈ XX (lịch sử lớp 8).(SGK trang 63)
Ở phần I: Quá trình xâm lược chủ nghĩa thực dân ở các nước
Đông Nam Á.
Chúng ta chỉ
cần học sinh hiểu được vì sao khu vực Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược
của các nước tư bản phương tây.
Ở phần II: PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Đây là phần trọng tâm của bài, ta nên dành nhiều thời
gian cần giúp học sinh nắm được các nét chính diễn biến của phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của các nước ở khu vực Đông Nam Á.
Đồng thời qua mỗi bài người giáo viên phải xác định
cần giáo dục tư tưởng tình cảm gì, kĩ năng nào cần rèn luyện cho học sinh. Cụ
thể qua bài trên cần giáo dục học sinh tinh thần đoàn kết quốc tế, tinh thần
lạc quan cách mạng, tình hữu nghị gắn bó giữa Việt Nam –Lào-Cam-pu-chia trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó qua bài trên rèn luyện cho học sinh kĩ
năng quan sát bản đồ, phân tích sự kiên lịch sử.
Như vậy chính sách giáo khoa đã làm điểm tựa để người
giáo viên xác định kiến thức cơ bản, xác định khái niệm cần hình thành cho học
sinh trong giờ học, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy học vừa phù hợp với
đối tượng vừa phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh.
b/ Sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học
lên lớp :
Trong quá trình dạy trên lớp ta nên cho học sinh đọc
sách giáo khoa đặc biệt là những phần chữ in nhỏ của bài, vì kiến thức được thể
hiện qua những đoạn này nhiều khi rất quan trọng, nó là nguồn tư liệu cần thiết
để làm giàu kiến thức cho học sinh vì thế ta cần chú ý cho học sinh đọc và tìm
hiểu để làm nổi bật trọng tâm của bài.
Ví Dụ 2:
KHI DẠY BÀI 18 : NƯỚC MĨ GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI (1918-1939) (Lịch sử lớp 8).(SGK trang 93)
Nếu người giáo viên chỉ nói chung chung nền kinh tế Mĩ
chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại,
tài chính quốc tế mà không cho học sinh đọc và tìm hiểu đoạn chữ in nhỏ trong
sách giáo khoa như sau:
Trong những
1923-1929 sản lượng công nghiệp của Mĩ tăng 69%,năm 1928, vượt quá sản
lượng của toàn Châu Âu chiếm 48% sản lượng công nghiệp thế giới. Mĩ đứng đầu
thế giới và các ngành công nghiệp sản xuất ô tô dầu lửa, thép … về tài chính,
Mĩ nắm 60% trữ lượng vàng của thế giới.
Từ dẫn chứng trên cho thấy nếu giáo viên bỏ qua kiến
thức quan trọng này thì học sinh sẽ không nắm được sự phát triển của nền kinh
tế Mĩ chiếm vị trí thứ nhất trong thế giới tư bản.
Do đó ta xác định nguồn kiến thức trong sách giáo khoa
ở đoạn chữ in nhỏ là cần thiết và quan trọng nó là những dẫn chứng cụ thể minh
họa làm sáng tỏ nội dung bài. Vì vậy người giáo viên phải triệt để sử dụng phần
này, có như vậy thì học sinh mới hiểu bài, giờ học sinh động hấp dẫn, gây hứng
thú học tập cho học sinh.
c/ Hướng dẫn cho học sinh sử dụng sách giáo khoa để
tự học ở nhà:
Vở ghi ở trên lớp và sách giáo khoa là phương tiện là nguồn
kiến thức chủ yếu để học sinh tự học ở nhà. Nhưng muốn đạt hiệu quả cao trong
dạy học lịch sử thì giáo viên phải có sự hướng dẫn cụ thể việc học ở nhà thông
qua sách giáo khoa như sau:
Ø Lập đề cương chi tiết và các sự kiện, diễn biến lịch
sử.
Trong dạy học lịch sử có dạng yêu cầu lập bản niên
biễu sự kiện lịch sử, do đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh lập đề cương chi
tiết những diễn biến hay sự kiện lịch sử đã học, từ đó học sinh về nhà tìm hiểu
qua sách giáo khoa tự sàn lọc những nội dung chính cần nhớ và tự mình lập một
đề cương chi tiết để củng cố khắc sâu kiến thức đã hoc.
Ví dụ 3:
Sau khi dạy xong chương I: LỊCH SỬ THẾ GIỚI CẬN ĐẠI (Từ
giữa thế kĩ XVI đến năm 1917).
Giáo viên yêu cầu học sinh lập bảng thống kê về sự
kiện chính của lịch sử thế giới cận đại theo mẫu sau:
THỜI GIAN
|
SỰ KIỆN
|
KẾT QUẢ
|
Tháng 8-1566
|
Cách
mạng Hà Lan
|
Lật
đổ ách thống trị của vương quốc Tây Ban Nha
|
|
|
|
|
|
|
Qua bảng thống
kê trên giúp các em nhận biết được những sự kiện chính của lịch sử thế giới cận đại và kết quả của từng
sự kiên đó. Muốn lập được bảng thống kê trên đòi hỏi học sinh phải tự đọc sách
lắng nghe bài học trên lớp từ đó rèn luyện cho các em thói quen học tập ở nhà
thông qua sách giáo khoa.
- Làm bài tập cho về nhà
Muốn cho học sinh học tốt hoặc để nhận biết sự tiếp
thu của học sinh như thế nào? Người giáo viên ra câu hỏi cho học sinh về nhà
làm (cả câu hỏi bài tập lẫn thực hành) câu hỏi đó có thể có ở cuối mục, cuối
bài trong SGK.
Học sinh về nhà phải làm tất cả các bài tập mà giáo
viên đưa ra bằng cách dựa trên bài học hoặc đi tìm hiểu thông qua sách báo, đài,
… Muốn làm tốt khâu này, giáo viên phải thường xuyên đánh giá, cho điểm khuyến
khích tuyên dương những học sinh tích cực, phê bình những học sinh lười làm bài
tập có như thế mới nắm bắt được tinh thần và thái độ học tập của các em.
2- Phương pháp sử dụng hệ thống những câu hỏi trong
dạy học lịch sử để phát triển tư duy cho học sinh:
Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung và dạy học
lịch sử nói riêng là một trong những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để
phát triển tư duy cho học sinh. Trong thực tế dạy học ở trường THCS nhiều giáo
viên đã có kinh nghiệm và thành công trong việc sử dụng hệ thống câu hỏi.
Nhìn chung để sử dụng tốt các câu hỏi trong quá trình
dạy học chúng ta cần lưu ý mấy điểm sau:
Thứ nhất : Câu hỏi và bài tập phải vừa sức và phù hợp với từng
đối tượng.
Tránh trường hợp đặt câu hỏi quá khó và vượt quá khả
năng tư duy của học sinh như: “đánh giá phân tích”… đồng thời câu
hỏi cũng không quá đơn giản như “ai lãnh đạo chiến thắng nào, bao giờ “…
giáo viên cần khắc phục tình trạng chưa cung cấp sự kiện lịch sử đã học mà đặt
câu hỏi, cách đặt câu hỏi như thế trái với đặc trưng bộ môn, buộc học sinh phải
nhìn vào SGKđể trả lời chứ không hoàn tự suy nghĩ tìm kiến thức.
Thứ hai : Mỗi giờ học giáo viên chỉ sử dụng lượng câu hỏi vừa
phải. Sau mỗi chương cần có câu hỏi bài tập, các câu hỏi của giáo viên phải tạo
thành hệ thống hoàn chỉnh có mối quan hệ lôgic chặt chẽ làm nổi bật chủ đề, nội
dung tư tưởng của bài.
Thứ ba:
Triệt để khai thác nội dung các câu hỏi sách giáo khoa và các câu hỏi được sáng
tạo trong quá trình soạn giảng của giáo viên, những câu hỏi đó phải đảm bảo
tính khoa học, tính tư tưởng, đồng thời phát huy được tư duy, rèn luyện được
các kĩ năng học tập cho các em.
Xuất phát từ những yêu cầu trên. Trong dạy học lịch sử
trong trường THCS. Chúng ta cần có các phương pháp sử dụng hệ thống các câu hỏi như sau:
- Nêu câu hỏi đầu giờ học:
+ Vào đầu
giờ giáo viên có thể kiểm tra bài cũ để nhận biết kết quả học tập của học sinh
như thế nào để từ đó có biện pháp giáo dục cụ thể.
+ Trước
khi cung cấp kiến thức bài học, giáo viên đưa ra câu hỏi để định hướng nhận
thức cho học sinh, câu hỏi này thường có tính chất bài tập. Muốn trả lời câu
hỏi cần huy động kiến thức cơ bản toàn bài, nêu câu hỏi đầu giờ có tác dụng
lớn:
Thứ nhất
: là xác định rõ ràng nhiệm vụ nhận thức của học sinh trong giờ hoc.
Thứ hai : hướng cho học sinh vào những kiến thức
trọng tâm của bài, huy động cao nhất hoạt động của các giác quan: nghe nhìn kết
hợp với tư duy và định hướng. Muốn trả lời được câu hỏi học sinh phải theo dõi
bài giảng, chọn lọc sự kiện. Đó chính là điều kiện để tư duy học sinh phát
triển.
-Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp:
Ngoài câu hỏi có tính chất bài tập mà giáo viên nêu ra
đầu giờ học trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn phải biết đặt ra nhiều câu
hỏi và giúp học sinh giải quyết các câu hỏi đó. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra
trong giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, kích thích tư duy phát
triển, đồng thời còn tạo ra mối quan hệ bên trong của học sinh và giữa học sinh
với giáo viên.
Trong sách giáo khoa thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ
1 đến 3 câu hỏi. Những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định
kiến thức trong sách, đồng thơi bổ sung để xây dựng hệ thông câu hỏi của bài.
Câu hỏi phải có sự chuẩn bị khi soạn giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào?
Học sinh sẽ trả lời như thế nào? Đáp án trả lời ra sao?
Một đặc trưng của phương pháp mới mà giáo viên dạy ở trường THCS nói chung và
bộ môn lịch sử nói riêng thường áp dụng trong giảng dạy và thu được kết quả cao
là phương pháp nêu câu hỏi thảo luận nhóm. Ưu điểm của việc nêu câu hỏi là để
học sinh tự học phát huy tính tích cực tư duy của mình, kết hợp với bạn bè,
tranh luận cùng nhau tìm kiến thức cho bài học.
Ví dụ 4
BÀI 11: CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á CUỐI THẾ KỈ XIX-ĐẦU THẾ KỈ XX (lịch sử lớp 8)
(SGK trang 63)
Sau khi dạy bài này giáo viên cần nêu câu hỏi để học
sinh thảo luận:
Nguyên nhân vì sao khu vực Đông Nam Á trở thành đối
tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây?
Qua phần chuẩn bị bài kết hợp với kiến thức trong sách
giáo khoa cùng với sự hiểu biết của bản thân, các em cùng nhau tìm tòi tranh
luận đúc kết lại những nguyên nhân vì sao khu vực Đông Nam Á trở thành đối
tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây.
Do các quốc gia Đông Nam Á có vị trí địa lí quan
trọng, giàu tài nguyên.
Có thị trường tiêu thụ rộng lớn, lực lượng lao đông dồi
dào.
Chế độ phong kiến ở các nước Đông Nam Á đang suy yếu.
Hoặc khi dạy :Bài 6:CÁC NUỚC CHÂU PHI(lịch sử lớp 9)
Sau khi dạy bài này giáo viên cần nêu câu hỏi để học
sinh học sinh thảo luận:
Hiện nay các nuớc châu phi đang gặp những khó khăn gì
trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội đất nuớc?
Qua phần các em sẽ
cùng nhau tìm tòi tranh luận đúc kết lại những khó khăn mà các nuớc châu
phi hiện nay phải đứng đầu đó là:
- Xung đột, sắc tộc, tôn giáo.
- Đ ói nghèo,bệnh dịch,…
- Nợ nuớc ngoài,…
Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong lịch sử còn là một
nghệ thuật. Đây cũng là đặc điểm tư duy lịch sử cần hình thành từng bước cho
học sinh. Nó đòi hỏi các em khi xem xét bất cứ một sự kiện nào cũng phải đặt
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tìm ra nguyên nhân làm nảy sinh sự kiện đó.
Khi hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi cần lưu ý các
em chú ý các vấn đề sau:
- Đọc kĩ câu hỏi.
- Tìm hiểu nội dung câu hỏi và yêu cầu đặt ra cần giải
quyết.
- Vận dụng kiến thức, cần sưu tầm tài liệu cơ sở cho
việc suy nghĩ và giải quyết vấn đề nêu ra câu hỏi.
- Tự kiểm tra câu trả lời có đúng và chính xác không?
Cần động viên khuyến khích học sinh tích cực trả lời.
Sau đó đánh giá nhận xét cho điểm, khen ngợi các học sinh tích cực, phê bình
học sinh thụ động chưa tích cực.
3- Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử để phát triển tư duy cho học sinh:
Đặc trưng của bộ môn lịch sử là các em không được tận
mắt chứng kiến những hình ảnh cụ thể về các sự kiện lịch sử, diễn biến lịch sử.
Do đó với môn lịch sử, sử dụng đồ dùng trực quan trong
dạy học là không thể thiếu. Vì thế trong dạy học bắt buộc giáo viên phải sử
dụng biểu đồ, bản đồ thông qua đó giúp cho các em tái tạo các sự kiện, diễn
biến của lịch sử. Từ đó giúp các em khắc sâu kiến thức. Thực tế cho thấy đồ
dùng trực quan tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, biết kết
hợp chặt chẽ hai hệ thống tính hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện
cho học sinh dễ hiểu nhớ lâu.
Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử có nhiều loại,
mỗi loại có cách sử dụng riêng.
a) Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách
giáo khoa:
Hình vẽ, tranh ảnh trong SGK, một phần của đồ dùng
trực quan trong quá trình dạy học có ý nghĩa hết sức to lớn, là nguồn kiến thức
giúp cho học sinh tư duy thông qua quan sát miêu tả tranh ảnh, giúp cho học
sinh rèn luyện kỹ năng diễn đạt, phân tích tranh ảnh để nhận biết ý nghĩa sự
kiện lịch sử.
Ví dụ 5:
Khi dạy phần lịch sử Việt Nam (lịch sử lớp 8)
BÀI 29:CHÍNH SÁCH
KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ,XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM (SGK trang 137)
Cần cho học sinh quan xác tranh ảnh về hình ảnh người
công nhân và nông dân trong thời kì Pháp thuộc từ đó cho học sinh hình dung ra
bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ cuộc sống của người nông dân cơ cực trăm bề, từ đó
giáo dục học sinh căm ghét chế độ bốc lột của thực dân Pháp.
b) Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử:
Trong quá trình dạy học lịch sử việc cho học sinh quan
sát chân dung của các nhân vật lịch sử là rất quan trọng. Giúp cho học sinh
nhận biết chân dung thật của nhân vật lịch sử, qua đó có cái nhìn thiết thực tỏ
lòng kính trọng, mến phục tài năng phẩm chất tốt đẹp của các vị anh hùng dân
tộc.
Ví dụ 6:
Khi dạy bài 30:
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX ĐẾN
NĂM 1918. (SGK trang 143)
Cần cho học sinh quan sát chân dung của một số sĩ phu
yêu nước.
Phong trào Đông Du (chân dung của Phan Bội Châu).
Phong trào Duy Tân (chân dung của Phan Châu Trinh).
Để học sinh nhận biết hình ảnh thật của một số sĩ phu
yêu nước của dân tộc ta đầu thế kỉ XX-đến năm 1918
c) Sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử nhằm phát huy
tính tích cực tư duy cho học sinh:
Đối với môn lịch sử việc quan sát bản đồ là không thể
thiếu được. Do đó trong giờ giảng bài giáo viên phải sử dụng bản đồ, lược đồ (nếu
nội dung bài có yêu cầu) thông qua bản đồ giúp cho học sinh tái tạo lại diễn
biến lịch sử.
Ví dụ 7:
Khi dạy bài 24: (SGK trang 114)
CUỘC KHÁNG CHIẾN TỪ NĂM 1858 ĐẾN NĂM 1873 (lịch sử lớp 8)
Nếu người giáo viên chỉ dạy chung chung cuộc kháng
chống Pháp lan rộng ra ba tỉnh của miền Tây Nam Kì thì học sinh sẽ không hình dung được cuộc
khởi nghĩa nổ ra ở đâu? Từ đó học sinh chỉ nhớ và hiểu một cách lưu mờ về sự
kiện lịch sử. Nhưng nếu giáo viên vừa
giảng vừa kết hợp sử dụng bản đồ chỉ “những địa điểm nổ ra khởi nghĩa ở
Nam Kì “ như ở Sóc Trăng, ở Trà Vinh, ở Bến Tre. . . sẽ giúp học sinh
khắc sâu kiến thức hình thành được khái niệm biểu tượng diễn biến lịch sử. Cụ
thể qua bài trên giáo viên trình bài cuộc khởi nghĩa của nông dân chống thực
dân Pháp đã lan ra các tỉnh Nam Kì. Đấu tranh vũ trang đã bùng nổ ở các tỉnh
(vừa nói tới tỉnh nào giáo viên xác định vị trí các tỉnh đó trên bản đồ, đồng
thời dán kí hiệu ngọn lửa vào vị trí các tỉnh
vừa xác định nổ ra ở các phong trào cách mạng).
Như ở :Sóc Trăng, Cần Thơ, Tây Ninh. . .
Khi dạy bài 7:CÁC NUỚC MỸ LA – TINH (lịch sử lớp 9)
Nếu giáo viên chỉ diễn giảng chung chung từ 60 – những
năm 80 của thế kỷ 20, một cao trào đấu tranh nổ ra ở nhiều nuớc Mỹ La- Tinh và
khu vực này đuợc ví dụ như “ lục địa bùn cháy” của cao trào cách mạng. Thì học
sinh sẽ không hình dung đuợc cao trào cách mạng diễn ra ở quốc gia nào của Mỹ
La- Tinh từ đó học sinh chỉ nhớ và hiểu một cách lưu mờ về sự kiện lịch sử.
Nhưng giáo viên vừa giảng vừa kết hợp bản đồ “khu vực các nước Mỹ La –Tinh sau
năm 1945” sẽ giúp học sinh khắt sâu kiến thức hình thành đuợc khái niệm
Thực tế cho thấy trong dạy học lịch sử nếu người giáo
viên biết tận dụng triệt để đồ dùng dạy học thì học sinh dễ dàng hình thành các
khái niệm, biểu tượng, diễn biến lịch sử từ đó giúp các em hiểu bài khắc sâu
kiến thức.
Trên đây chỉ là một vài phương pháp dạy học lịch sử
nhằm phát huy tính tích cực và tư duy cho học sinh trong việc dạy học lịch sử ở
trường THCS.
Qua một năm áp dụng phương pháp dạy học này. Kết quả
thu được rất khả quan, tỉ lệ học sinh giỏi tăng lên, đáng mừng là không có học
sinh học yếu. Cuộc khảo sát chất lượng giữa học kì môn lịch sử thu được kết quả
như sau:
Loại giỏi đạt: 25 em
Loại khá đạt: 34 em
Loại trung bình: 14 em
Tâm lí của học sinh cho thấy nếu học bộ môn nào mà cảm
thấy thích thú, từ đó các em không thấy nhàm chán, cái ý tưởng phân biệt môn
phụ môn chính sẽ không còn nữa, đó chính là nguyên nhân thúc đẩy sự tích cực
học tập. Do vậy người giáo viên bộ môn cần phải tìm ra những phương pháp giúp
học sinh vượt qua những khó khăn trong học tập, ý thức được trách nhiệm dẫn đến
kết quả học tập cao.
III/ KẾT LUẬN
Thực tế trong những năm học qua số lượng học sinh giỏi
môn lịch sử ngày càng tăng, Hàng năm trường có học sinh giỏi cấp hyện cấp tỉnh.
Cho thấy người giáo viên dạy môn lịch sử đã cố gắng làm hết vai trò của mình
không ngừng nghiên cứu tìm tòi phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục. Ap dụng những phương pháp giáo dục tích cực để bồi dưỡng cho học sinh
có năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, nhằm phát huy tính
tích cực cho người học, người học tự mình tìm ra kiến thức, giải đáp những câu
hỏi, biết làm việc với cá nhân với bạn, với thầy.
Ngoài ra người giáo viên cũng cần thiết rèn luyện kĩ
năng và kĩ thuật trong dạy học lịch sử, dạy học vừa mang tính khoa học, vừa
mang tính nghệ thuật, cho nên mỗi giáo viên phải thường xuyên bồi dưỡng các
phương pháp giảng dạy, truyền thụ cho các em học sinh những kiến thức cơ bản và
cần thiết nhất. Người giáo viên không chỉ dạy cho trẻ biết chữ mà còn dạy cho
trẻ biết cách sống biết làm người. Trang bị cho các em những tri thức cần thiết
để làm hành trang bước vào đời, có trình độ khoa học kĩ thuật phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng đất nước, xứng đáng là chủ nhân tương lai cho nước nhà trong
thế kỉ XXI./.